Đại Nam thực lục

Đại Nam Thực lục (chữ Hán大南實錄·大南寔錄) là bộ biên niên sử Việt Nam viết về triều đại các chúa Nguyễn và các vua nhà Nguyễn.

Nội dung

Bìa của Đại Nam thực lục tiền biên

Đại Nam thực lục ghi chép các sự kiện từ khi chúa Nguyễn Hoàng trấn thủ Thuận Hóa (1558) đến đời vua Khải Định (1925) do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn. Phần đầu của Đại Nam thực lục gọi là Tiền biên (Đại Nam Thực lục Tiền biên) hay Liệt thánh thực lục tiền biên (gồm 12 quyển) ghi chép các sự kiện lịch sử của 9 chúa Nguyễn Đàng trong từ Nguyễn Hoàng(1558) đến hết đời chúa Nguyễn Phúc Thuần (1777). Đại Nam thực lục chính biên (gồm 587 quyển) là phần thứ hai viết về triều đại các vua nhà Nguyễn, nhưng là phần chủ yếu, của bộ biên niên sử viết bằng chữ Hán Đại Nam Thực lục. Đại Nam Thực lục Chính biên ghi chép các sự kiện lịch sử từ khi Nguyễn Ánh làm chúa (1778) đến đời Đồng Khánh (1887), và sau này được viết thêm đến đời vua Khải Định (1925). Cả hai phần Tiền biên và Chính biên của bộ sử Đại Nam thực lục được soạn bắt đầu từ năm 1821 (năm Minh Mạng thứ hai), sau 88 năm đến năm 1909 mới cơ bản hoàn thành (gồm toàn bộ phần Tiền biên và 6 kỷ đầu phần Chính biên). Đại Nam Thực lục Chính biên được phân thành 8 phần (kỷ), bao gồm:

  • Đệ nhất kỷ, gồm 60 quyển, là biên niên lịch sử nhà Nguyễn đời vua Gia Long (Nguyễn Ánh) 1778 – 1819.
  • Đệ nhị kỷ, gồm 222 quyển, là biên niên lịch sử nhà Nguyễn đời vua Minh Mạng 1820 – 1840.
  • Đệ tam kỷ, gồm 74 quyển, là biên niên lịch sử nhà Nguyễn đời vua Thiệu Trị 1841 – 1847.
  • Đệ tứ kỷ, gồm 71 quyển, là biên niên lịch sử nhà Nguyễn đời vua Tự Đức 1848 – 1883.
  • Đệ ngũ kỷ, là biên niên lịch sử nhà Nguyễn đời vua Kiến Phúc (1883 – 1885).
  • Đệ lục kỷ, là biên niên lịch sử nhà Nguyễn đời các vua Hàm Nghi và Đồng Khánh (1885 – 1888).
  • Đệ lục kỷ phụ biên, gồm 29 quyển, là biên niên lịch sử nhà Nguyễn đời các vua Thành Thái (19 quyển) và Duy Tân (10 quyển), trong thời kỳ (1889 – 1916).
  • Đệ thất kỷ, gồm 10 quyển, là biên niên lịch sử nhà Nguyễn đời vua Khải Định (1916 – 1925).

Trước năm 2003, bộ Đại Nam thực lục chính biên được lưu trữ tại Việt Nam chỉ gồm 6 phần từ đệ nhất kỷ đến đệ lục kỷ. Đến năm 2003, hai phần đệ lục kỷ phụ biên và đệ thất kỷ được ông Roger Ngô Thiết Hùng phát hiện ra là đang được lưu trữ tại trường Viễn Đông Bác cổ Paris, sau đó gửi tặng cho viện Sử học Việt Nam bản sao chụp.

Các tác giả

Đại Nam thực lục tiền biên do các sử quan thời Minh Mạng và Thiệu Trị là: Trương Đăng Quế, Vũ Xuân Cẩn (tức Võ Xuân Cẩn), Hà Duy Phiên, Nguyễn Trung Mậu, Phan Bá Đạt biên soạn.

Bộ Đại Nam thực lục chính biên được biên soạn bởi tập thể các sử quan, trong nhiều thời kỳ của Quốc sử quán, bao gồm các tác giả sau: Trương Đăng Quế (tham gia biên soạn 3 kỷ đầu), Võ Xuân Cẩn, Hà Duy Phiên, Đỗ Quang, Phạm Hữu Nghi, Tô Trân, Trần Trứ, Trương Quốc Dụng, Trương Văn Tuyển, Lâm Duy Thiếp, Trần Tiễn Thành, Phan Thanh Giản, Đỗ Đăng Đệ, Đặng Văn Kiều, Trần Khánh Tiến, Nguyễn Hữu Độ, Phan Đình Bình, Nguyễn Trọng Hợp, Trương Quang Đản, Bùi Ân Niên, Cao Xuân Dục, Cao Xuân Tiếu, Hồ Đắc Trung, …

Bản dịch quốc ngữ đầu tiên

Vào năm 1962, Viện Sử học bắt đầu cho công bố bản dịch bộ Đại Nam thực lục, tập 1, phần Tiền biên, do Nhà xuất bản Sử học xuất bản. Sau đó đến năm 1978 (16 năm sau) thì phần Chính biên gồm 37 tập được hoàn thành với sự hợp tác của Nhà xuất bản Khoa học xã hội, kết thúc công việc xuất bản trọn bộ Đại Nam thực lục. Bản dịch lần đầu bộ Đại Nam thực lục được chia thành 38 tập (khổ 13x19cm): trong đó Tiền biên 1 tập, Chính biên 37 tập (kỷ thứ nhất đến kỷ thứ 6).

Trong lời đề tựa của mình, Viện đã dành nhiều lời lẽ không mấy tốt đẹp để nói về bộ sách này.

“Theo lệnh của các vua nhà Nguyễn, bọn sử thần của nhà Nguyễn làm công việc biên soạn Đại Nam thực lục đã cố gắng rất nhiều để tô son vẽ phấn cho triều đại nhà Nguyễn … Nhưng bọn sử thần ấy vẫn không che giấu nổi các sự thật của lịch sử. Dưới ngòi bút của họ, sự thật của lịch sử … vẫn phơi bày cho mọi người biết tội ác của bọn vua chúa phản động, không những chúng đã cõng rắn cắn gà nhà, mà chúng còn cố tâm kìm hãm, đày đọa nhân dân Việt Nam trong một đời sống tối tăm đầy áp bức”

Tái bản bản quốc ngữ

Năm 2001, viện Sử học liên kết với nhà xuất bản Giáo dục bắt đầu tái bản bộ Đại Nam Thực lục Chính biên dưới dạng bộ sách nhiều tập bằng chữ quốc ngữ (tiếng Việt), tập đầu xuất bản vào năm 2002. Đến cuối năm 2007 thì hoàn thành việc xuất bản trọn bộ Đại Nam thực lục (phần Tiền biên, Chính biên từ kỷ thứ nhất đến kỷ thứ 6).

Lần xuất bản thứ 2, bộ Đại Nam thực lục được dồn lại còn 10 tập (khổ 16x24cm):

  • Tập một, gồm: Tiền biên và Chính biên-Kỷ thứ nhất (từ 1558 đến 1819) do Nguyễn Ngọc Tỉnh dịch; Đào Duy Anh hiệu đính.
  • Tập hai: Chính biên-Kỷ thứ hai (từ 1820 đến 1829) do Ngô Hữu Tạo, Nguyễn Mạnh Duân, Phạm Huy Giu, Nguyễn Danh Chiên, Nguyễn Thế Đạt, Trương Văn Chinh, Đỗ Mộng Khương dịch; Đào Duy Anh hiệu đính.
  • Tập ba: Chính biên-Kỷ thứ hai (từ 1830 đến 1833) do Đỗ Mộng Khương, Trần Huy Hân, Trương Văn Chinh, Nguyễn Mạnh Duân, Ngô Hữu Tạo, Nguyễn Thế Đạt, Thẩm Văn Điền, Nguyễn Trọng Hân, Phạm Huy Giu dịch; Đào Duy Anh, Hoa Bằng hiệu đính.
  • Tập bốn: Chính biên-Kỷ thứ hai (từ 1834 đến 1836) do Nguyễn Thế Đạt, Trương Văn Chinh, Nguyễn Doanh Chiên, Ngô Hữu Tạo, Nguyễn Mạnh Duân, Đỗ Mộng Khương dịch; Hoa Bằng hiệu đính.
  • Tập năm: Chính biên-Kỷ thứ hai (từ 1837 đến 1840) do Đỗ Mộng Khương, Phạm Huy Giu, Nguyễn Ngọc Tỉnh, Nguyễn Mạnh Duân, Nguyễn Danh Chiên, Trương Văn Chinh dịch; Nguyễn Trọng Hân, Cao Huy Giu hiệu đính.
  • Tập sáu: Chính biên-Kỷ thứ ba (từ 1841 đến 1847) do Cao Huy Giu, Trịnh Đình Rư, Trần Huy Hân, Nguyễn Trọng Hân dịch; Hoa Bằng hiệu đính.
  • Tập bảy: Chính biên-Kỷ thứ tư (từ 1848 đến 1873) do Nguyễn Ngọc Tỉnh, Ngô Hữu Tạo, Phạm Huy Giu, Nguyễn Thế Đạt, Đỗ Mộng Khương, Trương Văn Chinh, Cao Huy Giu dịch; Nguyễn Trọng Hân, Cao Huy Giu hiệu đính.
  • Tập tám: Chính biên-Kỷ thứ tư (từ 1877 đến 1883) do Ngô Hữu Tạo, Nguyễn Mạnh Duân, Trần Huy Hân, Nguyễn Trọng Hân, Đỗ Mộng Khương dịch. Cao Huy Giu; Nguyễn Trọng Hân hiệu đính.
  • Tập chín: Chính biên-Kỷ thứ năm (từ 1883 đến 1885) do Nguyễn Ngọc Tỉnh dịch; Nguyễn Mạnh Duân hiệu đính.
  • Tập mười: Chính biên-Kỷ thứ sáu (từ 1885 đến 1888) do Phạm Huy Giu, Trương Văn Chinh dịch; Nguyễn Trọng Hân hiệu đính.

(Nguồn : http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i_Nam_th%E1%BB%B1c_l%E1%BB%A5c)

Bình luận về bài viết này