Vua Hùng Vương

Đền Hùng Quốc Tổ

Hùng Vương, hay vua Hùng, là tên hiệu các vị vua cai trị nhà nước Văn Lang của người Lạc Việt.

Theo truyền thuyết, các vua này là hậu duệ của Lạc Long Quân và Âu Cơ.

Đại Việt Sử ký Toàn thư, phần lời tựa của Ngô Sĩ Liên chép: “Nước Đại Việt ở phía nam Ngũ Lĩnh, thế là trời đã phân chia giới hạn Nam–Bắc. Thuỷ tổ của ta là dòng dõi họ Thần Nông, thế là trời sinh chân chúa, có thể cùng với Bắc triều mỗi bên làm đế một phương“.

Truyền thuyết khởi đầu

Lại chép về họ Hồng Bàng như sau: “Xưa cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông là Đế Minh sinh ra Đế Nghi, Rồi sau Đế Minh đi tuần phương Nam, đến dãy Ngũ Lĩnh gặp Vụ Tiên nữ sinh ra Vương (Lộc Tục). Vương là bậc Thánh trí thông minh. Đế Minh yêu quí lạ, muốn cho nối ngôi. Vương cố nhường cho anh mình, không dám vâng mệnh. Đế Minh vì thế lập Đế Nghi là con trưởng nối dòng trị phương Bắc. Lại phong cho vua là Kinh Dương Vương, trị phương Nam, đặt tên nước là Xích Quỉ. Vương lấy con gái Chúa Động Đình tên là Thần Long, sinh ra Lạc Long Quân.“.

“Lĩnh Nam chích quái” thời Trần viết rằng: “Âu Cơ kết hôn với Lạc Long Quân, sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra một trăm người con. Về sau, Lạc Long Quân chia tay với Âu Cơ; 50 người con theo cha xuống biển, 50 người con theo mẹ lên núi. Người con cả được tôn làm vua, gọi là Hùng Vương.” (Hoặc nằm trong truyện Con rồng cháu tiên)

Xã hội Văn Lang dưới thời các vua Hùng

Đứng đầu nước Văn Lang là Hùng Vương. Ngôi Hùng Vương là cha truyền con nối. Hùng Vương đồng thời là người chỉ huy quân sự, chủ trì các nghi lễ tôn giáo. Dưới Hùng Vương có các lạc tướnglạc hầu giúp việc. Cả nước chia thành 15 bộ (đơn vị hành chính lớn) có lạc tướng còn trực tiếp cai quản công việc của các bộ (bộ lạc cũ). Dưới nữa là các bố chính, đứng đầu các làng bản. Dân gọi là lạc dân.

Kinh đô của nước đặt ở Phong Châu, Phú Thọ.

Công cụ là đồng thau trở nên phổ biến và bắt đầu có công cụ bằng sắt. Có nên kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước, dùng sức cày kéo của trâu bò là phổ biến nhất.

Ngoài ra còn săn bắt, chăn nuôi, đánh cá và làm nghề thủ công như đúc đồng, làm đồ gốm. Sự phân công lao động giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp đã xuất hiện.

Các vị vua

Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, tính từ thời Kinh Dương Vương (2879 TCN) cho đến hết thời Hùng Vương (năm 258 TCN) kéo dài 2.622 năm. Nhà nước Văn Lang tồn tại đến năm 258 TCN thì bịThục Phán (tức An Dương Vương) thôn tính. (số năm trị vì là ước đoán)

  1. Hùng Dương (Lộc Tục): 2879 – 2794 TCN
  2. Hùng Hiền (Lạc Long Quân): 2793 – 2525 TCN
  3. Hùng Lân (vua): 2524 – 2253 TCN
  4. Hùng Việp: 2252 – 1913 TCN
  5. Hùng Hy (trước): 1912 – 1713 TCN
  6. Hùng Huy: 1712 – 1632 TCN
  7. Hùng Chiêu: 1631 – 1432 TCN
  8. Hùng Vỹ: 1431 – 1332 TCN
  9. Hùng Định: 1331 – 1252 TCN
  10. Hùng Hy : 1251 – 1162 TCN
  11. Hùng Trinh: 1161 – 1055 TCN
  12. Hùng Võ: 1054 – 969 TCN
  13. Hùng Việt: 968 – 854 TCN
  14. Hùng Anh: 853 – 755 TCN
  15. Hùng Triều: 754 – 661 TCN
  16. Hùng Tạo: 660 – 569 TCN
  17. Hùng Nghị: 568 – 409 TCN
  18. Hùng Duệ: 408 – 258 TCN

Bình luận về bài viết này